• Sức khỏe
  • Bệnh béo phì và tiểu đường biến chứng liên quan gì đến suy giãn tĩnh mạch?

Bệnh béo phì và tiểu đường biến chứng liên quan gì đến suy giãn tĩnh mạch?

Béo phì và tiểu đường biến chứng gây ra khá nhiều quan ngại cho người bệnh, trong đó, việc xảy ra tình trạng suy giảm chứng năng về hệ tim mạch là rất lớn. Đây là 2 nguyên do có thể dễ dẫn đến bệnh lý suy giãn tĩnh mạch chân thường thấy ở một số bệnh nhân trở nặng.

Vậy, bệnh tiểu đường là gì? Bệnh béo phì hiểu cụ thể như thế nào? Và bệnh béo phì cũng như bệnh tiểu đường biến chứng có tương quan gì với bệnh suy giãn tĩnh mạch không? Phương pháp phòng ngừa cũng như cách để chữa suy giãn tĩnh mạch do tiểu đường biến chứng cụ thể ra sao và có hiệu quả như thế nào? Dưới đây là một vài thông tin chia sẽ cùng bạn.

Bệnh tiểu đường và suy giãn tĩnh mạch

Bệnh tiểu đườg (đái thá0 đườg) xảy ra do rối loạn chuyển hóa đườg trog máu. Khi horm0ne insulin được sản xuất bởi tuyến tụy khôg chứa hoặc chuyển hóa đường, lượng đường tr0ng máu vẫn ở mức cao và các tế bào thiếu năg lượng để hoạt độg.

Bệnh béo phì và tiểu đường biến chứng liên quan gì đến suy giãn tĩnh mạch?

Bệnh tiểu đường có thể được chia thành hai loại chính: bệnh tiểu đường l0ại 1 (thường xảy ra trung bình ở thanh niên) và bệnh tiểu đường l0ại 2 (thường được gọi là bệnh lý tiểu đường tuổi trung niên).

Cả hai loại bệnh tiểu đường đều d0 lượng đường tr0ng máu cao. Tăng đường huyết rất nguy hiểm cho người bệnh và dẫn đến các biến chứng cấp tính và lâu dài. Quá nhiều đường trong máu làm hỏng lớp niêm mạc của các động mạch ở mọi kích cỡ và dẫn đến xơ cứng động mạch và / hoặc tắc nghẽn mảng bám.

Các biến chứng của bệnh tiểu đường thường được chia thành biến chứng mạch máu lớn và biến chứng mạch máu nhỏ. Đây chính là nguyên do chủ yếu dẫn tới bệnh lý suy giãn tĩnh mạch chân với trường hợp nặng là phổ biến. Các biến chứng mạch máu nguy hiểm nhất bao gồm các bệh mạch máu não cụ thể (đột quỵ), các bệnh mạch vành (nhồi máu cơ tim), mạch máu ngoại vi (xơ vữa động mạch chi dưới, động mạch chủ, tuần hoàn động mạch cảnh).

Các biến chứng mạch máu nhỏ bao gồm biến chứng thận (dẫn đến suy thận giai đoạn cuối và phải chạy thận nhân tạo), biến chứng mắt (đục thủy tinh thể sớm và nặng hơn, bệnh võng mạc có thể dẫn tới mất đi thị lực) và các biến chứng thần kinh khiến bệnh nhân mất đi độ nhạy. Vì vậy nếu vết thương ở chân không phát hiện được gây nhiễm trùng thì có thể phải cắt cụt chi khó điều trị.

Hậu quả thường thấy của bệnh lý đái tháo đường (tiểu đường)

- Biến chứng thận: Bệnh tiểu đường làm tổn thương các mạch máu nhỏ trong thận, dẫn đến chức năng thận kém hoặc suy thận. Bệnh thận thường gặp ở những người mắc bệnh tiểu đường hơn những người không mắc bệnh. Duy trì mức đường huyết và huyết áp bình thường làm giảm đáng kể nguy cơ mắc bệnh thận.

- Biến chứng thị giác: Hầu hết những người mắc bệnh tiểu đường sẽ phát triển một số loại bệnh về mắt với thị lực kém hoặc mù. Mức đường huyết cao liên tục cùng với huyết áp cao và cholesterol cao là những nguyên nhân chính gây ra bệnh võng mạc. Tình trạng này có thể được kiểm soát thông qua kiểm tra mắt thường xuyên, giữ mức đường huyết và huyết áp ở mức gần hoặc bình thường.

- Biến chứng tim mạch: Xuất hiện tình trạng không bình thường đối với hệ tim mạch: suy tim, suy tĩnh mạch, suy động mạch. trong đó, bệnh động mạch ngoại biên sẽ xảy ra khi mảng bám tích tụ trong các động mạch cung cấp máu cho tay chân (tứ chi). Nó có thể gây tê, đau và nhiễm trùng ở chi bị ảnh hưởng. Nhiễm trùng nặng có thể phải cắt cụt chi.

- Tổn thương hệ thần kinh: Bệnh tiểu đường loại 2 có thể gây tổn thương dây thần kinh khắp cơ thể khi lượng đường trong máu và huyết áp quá cao. Điều này dẫn đến các vấn đề về tiêu hóa, rối loạn cương dương và nhiều chức năng khác. Vùng bị ảnh hưởng nhiều nhất là tứ chi, đặc biệt là bàn chân do cấu trúc giải phẫu của dây thần kinh mạch máu và tư thế của con người khác với các cơ quan khác.

Béo phì và bệnh suy tĩnh mạch

Béo phì là tình trạg tích tụ quá nhiều chất béo tr0ng cơ thể. Ngoại trừ nhữg người có cơ bắp săn chắc, nhữg người có trọg lượng cơ thể vượt quá 20% trọg lượg tiêu chuẩn về chiều cao đều bị c0i là béo phì. Hoặc dựa và0 chỉ số BMI từ côg thức: trọng lượg cơ thể chia cho (2 lần chiều cao). Nếu chỉ số 25 đến 29,9 được gọi là béo phì độ 1, 30 đến 34,9 là béo phì độ 2, 35 là béo phì độ 3 trở lên

Khi bạn bị béo phì, áp lực lên cơ thể tăng lên, đặc biệt là khi đứng, khiến máu rất khó đưa máu về tim theo đường tĩnh mạch. Áp lực trong lòng mạch sẽ tăng lên, làm cho các thành tĩnh mạch của tĩnh mạch nông và tĩnh mạch sâu bị giãn ra, và do đó van tĩnh mạch sẽ không đóng chặt, làm cho máu chảy ngược xuống.

Từ đó sẽ gây ra tình trạng suy tĩnh mạch chi dưới gây sưng phù, nặng hơn là bị chuột rút ở chân. Đau và tê chân, nặng hơn là giãn các tĩnh mạch ngoại vi, có thể dẫn đến máu đông trong tĩnh mạch.

Một số dấu hiệu và biến chứng xấu của chứng bệnh béo phì

Dấu hiệu nhận biết béo phì dễ thấy nhất là trọng lượng cơ thể tăng lên và tích tụ mỡ ở một số bộ phận đặc biệt trên cơ thể như: bụng, đùi, eo, thậm chí là ở ngực.

Việc tích tụ quá nhiều mỡ ở ngực, cơ hoành và bụng sẽ gây ra tình trạng khó thở cho người bệnh. Trong trường hợp béo phì nặng, khó thở có thể là đồng tính và hội chứng Picwick với các cơn ngưng thở khi ngủ có thể gây tử vong.

Béo phì cũng dẫn đến các rối loạn chỉnh hình, chẳng hạn như đau và thoái hóa khớp gối, đau lưng và thoái hóa cột sống, v.v. Một số phụ nữ có thể có kinh nguyệt không đều hoặc không có kinh. Những người khác rất dễ bị tăng huyết áp, thiếu máu cơ tim, tiểu đường, ung thư và nhiều bệnh khác làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và rút ngắn tuổi thọ của con người.